8.19.2011

Tìm hiểu quy tắc sử dụng Incoterms

Tìm hiểu quy tắc sử dụng Incoterms

Phạm Thị Thanh Nga
Sở giao dịch VietinBank

Cùng với thời gian, thương mại quốc tế (TMQT) ngày càng phát triển. Trước kia, các thương nhân phải tự mang hàng hóa từ nơi này đến nơi khác, mất hàng tháng để thực hiện các giao dịch mua bán, lợi nhuận thu được nhiều nhưng rủi ro cũng không ít. Ngày nay, nhờ sự phát triển của các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, sự hình thành các khối nước thương mại chung, các trung gian thương mại, tài chính.v.v. thì người mua và người bán không cần gặp nhau trực tiếp mà vẫn mua/bán được hàng hóa, dịch vụ. Chính sự phát triển này đòi hỏi phải có những quy tắc được thừa nhận rộng rãi để điều chỉnh những quan hệ ngày càng phức tạp trong TMQT.
Khái niệm Incoterms 
Có rất nhiều quy tắc, thông lệ quốc tế chi phối quan hệ TMQT như: UCP điều chỉnh các quan hệ trong giao dịch sử dụng phương thức tín dụng chứng từ, URR điều chỉnh các quan hệ trong giao dịch sử dụng phương thức thanh toán nhờ thu,.v.v. Incoterms (International Commerce Terms – các điều kiện TMQT) cũng là một trong những quy tắc như vậy. Đây là quy tắc chính thức của Phòng thương mại quốc tế (ICC) nhằm giải thích thống nhất các điều kiện thương mại, thông qua đó tạo điều kiện cho các giao dịch TMQT diễn ra thuận lợi, trôi chảy.
Việc hiểu rõ quy tắc này không chỉ cần thiết với các bên mua, bên bán mà còn rất cần thiết với các cán bộ ngân hàng, là những người trực tiếp tư vấn cho khách hàng nhằm đảm bảo khách hàng đạt được những thuận lợi, tối đa được lợi ích trong quá trình giao dịch.
Tuy không phải là một yếu tố bắt buộc trong hợp đồng mua bán quốc tế, nhưng việc dẫn chiếu đến Incoterms sẽ phân định rõ ràng nghĩa vụ tương ứng của các bên, làm giảm nguy cơ rắc rối có thể gặp phải về mặt pháp lý. Chính vì thế mà các bên tham gia giao dịch TMQT cần phải nắm rất rõ đặc điểm sử dụng của Incoterms để thông qua đó tự bảo vệ mình và có những ứng xử thích hợp khi xảy ra tranh chấp.
Đặc điểm sử dụng
Thứ nhất, Incoterms là tập quán thương mại, không có tính chất bắt buộc. Chỉ khi nào các bên tham gia hợp đồng quy định sử dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa thì nó mới trở thành điều kiện bắt buộc, ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng.
Thứ hai, các phiên bản ra đời sau không phủ nhận tính hiệu lực của các phiên bản trước. Chính vì vậy, mà khi sử dụng thì cần phải ghi rõ áp dụng Incoterms phiên bản nào để đối chiếu, để xác định trách nhiệm của các bên.
Thứ ba, Incoterms chỉ giải thích những vấn đề chung nhất có liên quan đến việc giao hàng, như việc bên nào có nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải hoặc mua bảo hiểm, khi nào người bán giao hàng cho người mua và phân chia chi phí cho các bên ra sao. Song các vấn đề khác như giá cả, phương thức thanh toán, việc bốc, xếp, dỡ hàng hóa, lưu kho, lưu bãi thì tùy theo vào thỏa thuận của các bên thể hiện trong hợp đồng hoặc theo tập quán cảng, tập quán ngành kinh doanh, tập quán của nước sở tại của các bên tham gia mua bán.
Thứ tư, hai bên mua bán có thể tăng giảm trách nhiệm, nghĩa vụ cho nhau tùy thuộc vào vị thế mạnh (yếu) trong giao dịch nhưng không được làm thay đổi bản chất điều kiện cơ sở giao hàng. Việc tăng, giảm trách nhiệm, nghĩa vụ (nếu có) cần phải được cụ thể hóa trong hợp đồng mua bán.
Thứ năm, Incoterms chỉ xác định thời điểm di chuyển rủi ro hàng hóa từ người mua đến người bán chứ không xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa, cũng như hậu quả của việc vi phạm hợp đồng. Những vấn đề này thường được quy định trong các điều khoản khác của hợp đồng hoặc trong luật điều chỉnh hợp đồng. Các bên cũng cần biết rằng luật địa phương được áp dụng có thể làm mất hiệu lực bất cứ nội dung nào của hợp đồng, kể cả điều kiện Incoterms đã được lựa chọn trước đó.
Cuối cùng, tùy thuộc vào việc hàng hóa được chuyên chở bằng phương tiện nào (đường không, đường biển, đường bộ, v.v), loại hình nào (hàng rời, container, sà lan, v.v) thì có những nhóm điều kiện tương ứng.
Incoterms qua những lần sửa đổi
Năm 1936, Incoterms phiên bản đầu tiên ra đời. Và đến nay, qua 75 năm, Incoterm đã qua 5 lần sửa đổi hoặc ban hành các phiên bản mới. Những thay đổi qua các phiên bản được tóm tắt trong bảng 1.
Mặc dù các phiên bản Incoterms là không phủ nhận lẫn nhau và sự cập nhật thường xuyên chính là để bắt kịp với nhịp độ phát triển của TMQT. Tuy vậy, tùy thuộc vào thói quen giao dịch mua bán, tập quán của từng vùng, địa điểm giao dịch mà người ta có thể lựa chọn phiên bản cập nhật hay các phiên bản khác cũ hơn để áp dụng.
Cho đến nay thì hầu như người ta không sử dụng các phiên bản cũ nữa mà chỉ dùng các phiên bản năm 1990, 2000 và gần đây nhất là 2010. Chính vì thế, việc hiểu rõ chi tiết từng phiên bản, những thay đổi giữa các phiên bản này là hết sức cần thiết cho người mua, người bán.
Những điểm khác biệt cơ bản giữa Incoterms 1990 và Incoterms 2000Cùng bao gồm 13 điều kiện nhưng Incoterms 2000 đã sửa đổi và thể hiện nội dung của 13 điều kiện thương mại một cách đơn giản hơn và rõ ràng hơn. Cụ thể như sau:
- Incoterms 2000 đã đưa nghĩa vụ thông quan xuất khẩu theo điều kiện FAS vào trách nhiệm của người bán thay vì là trách nhiệm của người mua trong Incoterms 1990;
- Incoterms 2000 quy định rõ nghĩa vụ của người bán về việc bốc hàng hóa lên phương tiện gom hàng của người mua và nghĩa vụ của người mua dỡ hàng từ phương tiện của người bán theo điều kiện FCA, cụ thể: tại Incoterms 2000, nơi giao hàng có tính quyết định trong việc phân chia chi phí bốc hàng giữa người mua và người bán, cụ thể như sau: (1) Nếu nơi giao hàng tại cơ sở của người bán thì người bán có nghĩa vụ và chịu chi phí bốc hàng lên phương tiện vận chuyển do người mua đưa đến để nhận hàng; (2) Nếu nơi giao hàng là bất cứ địa điểm nào khác cơ sở của người bán thì người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng khi đã đặt hàng háo dưới sự định đoạt của người mua trên phương tiện vận chuyển của người bán đưa tới để giao hàng tại bến do người mua chỉ định, và người mua phải chịu chi phí dỡ hàng khỏi phương tiện đó để nhận hàng.
- Incoterms 2000 đã đưa nghĩa vụ thông quan nhập khẩu và trả cho mọi thủ tục, thuế và những chi phí khác trước khi nhập khẩu theo điều kiện DEQ vào trách nhiệm của người mua thay vì là trách nhiệm của người bán trong Incoterms 1990.
- Thay đổi trong nhóm điều kiện C: Nếu như trong Incoterms 1990, người bán phải cung cấp cho người mua một bản sao hợp đồng thuê tầu khi chứng từ vận tải có dẫn chiếu đến hợp đồng thuê tàu thì trong Incoterms 2000, điều đó đã được xóa bỏ.
Thêm vào đó, thuật ngữ được sử dụng trong Incoterms 2000, trong một vài trường hợp đã được thay đổi nhằm giúp cho việc hiểu Incoterms được thống nhất và đơn giản.
Những điểm khác biệt cơ bản giữa Incoterms 2000 và Incoterms 2010
Một trong những sửa đổi quan trọng trong phiên bản  Incoterms 2010 là bỏ 4 điều khoản (DAF, DES, DEQ và DDU) và đưa vào 2 điều khoản mới (DAP - Delivered at Place và DAT - Delivered at Terminal). Sự thay đổi này bắt nguồn từ xu hướng vận chuyển hàng hóa bằng container ngày càng chiếm tỷ trọng quan trọng trong giao thương và dường như các nhà soạn thảo quy tắc cũng lo lắng với tình trạng các bên giao dịch thường chọn “nhầm” điều khoản hoặc lẫn lộn các điều khoản, dẫn đến các hợp đồng có nội dung mẫu thuẫn hoặc không rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình thực hiện.
Điều kiện DAT của Incoterms 2010 áp dụng khi hàng hóa được giao vào quyền định đoạt của người mua tại ga/trạm xác định tại cảng hoặc tại điểm đích chưa được dỡ xuống khỏi phương tiện vận tải đến. Điều khoản DAT của Incoterm 2010 thay thế cho điều khoản DEQ trước đó của Incoterms 2000 vốn chỉ phù hợp cho hàng nguyên liệu. Incoterms 2000 không có giải pháp thỏa đáng cho các điều khoản “D” đối với trường hợp hàng hóa được giao mà chưa dỡ xuống khỏi phương tiện vận tải đến tại trạm/ga. Điều khoản mới DAT của Incoterm 2010 (Delivered at Terminal) đã giải quyết được vấn đề này và bao gồm tất cả các trường hợp trước đó được qui định bởi điều khoản DEQ. “Trạm xác định” trong điều khoản DAT có thể là cầu cảng tại cảng dỡ hoặc trạm container tại cảng dỡ.
Điều kiện DAP trong Incoterms 2010 bao gồm tất cả các trường hợp người bán giao hàng cho người mua trên phương tiện vận tải đến mà chưa dỡ hàng xuống, là những trường hợp trước đó được qui định bởi các điều khoản DAF, DES cũng như tất cả các trường hợp giao hàng tại cơ sở của người mua hay điểm đích nào khác tại nước của người mua mà trước đó được qui định bởi điều khoản DDU. Đối với điều khoản DAP, “phương tiện vận tải đến” cũng có thể là một con tàu, và “điểm đích xác định” có thể là cảng dỡ.
Thứ hai, 11 điều khoản được chia làm 2 loại điều khoản thay vì 04 loại như Incoterms 2000:
- Giao hàng bằng bất kỳ phương thức vận tải nào (vận tải biển, đường bộ, hàng không, đường sắt, đa phương thức) – EXW, FCA, CPT, CIP, DAP, DAT và DDP; và
- Giao hàng bằng vận tải đường biển/ đường thủy nội địa – FAS, FOB, CFR và CIF.
Thứ ba, Incoterms 2010 chính thức thừa nhận rằng những qui tắc này có thể sử dụng cả trong TMQT và thương mại nội địa (nếu phù hợp).
Thứ tư, nêu rõ tham chiếu đến việc sử dụng "các phương tiện ghi chép điện tử có giá trị tương đương với việc trao đổi thông tin bằng giấy", nếu như các bên đồng ý như vậy, hoặc đó là tập quán thương mại. Điều này phản ánh sự thừa nhận của ICC về tầm quan trọng ngày càng tăng và tính chắc chắn về hợp đồng (nhờ tốc độ chuyển thông tin nhanh chóng) mà giao tiếp bằng điện tử mang lại và đảm bảo sự phù hợp của Incoterms 2010 trong tương lai khi các giao tiếp/thủ tục điện tử ngày càng phát triển.
Thứ năm, Incoterms 2010 là phiên bản điều kiện thương mại đầu tiên kể từ khi các điều kiện bảo hiểm hàng hóa được sửa đổi và đã tính đến những sự thay đổi của các điều kiện này.
Thứ sáu, phân bổ các nghĩa vụ tương ứng của các bên trong việc cung cấp hoặc hỗ trợ để lấy được các chứng từ và thông tin cần thiết nhằm thông quan liên quan đến an ninh. Các phiên bản Incoterms trước đây không yêu cầu chi tiết về mức độ hợp tác như vậy.
Thứ bảy, trách nhiệm đối với các khoản phí xếp hàng tại ga/trạm được phân bổ rõ ràng. Trong trường hợp người bán phải thuê và thanh toán cho việc vận chuyển hàng hóa đến một điểm đích nhất định (CIP, CPT, CFR, CIF, DAT, DAP và DDP), có thể các chi phí bốc xếp hàng hóa đã được chuyển sang cho người mua thông qua giá cả của hàng hóa. Tuy nhiên, từ trước đến nay, trong một số trường hợp, người mua vẫn có thể phải thanh toán khoản này cho nhà ga (tức là chịu phí hai lần). Incoterms 2010 đã cố gắng khắc phục tình trạng này bằng cách làm rõ ai sẽ chịu trách nhiệm thanh toán các chi phí ở ga/trạm. Tuy nhiên, vẫn phải chờ thêm một thời gian nữa để xem liệu qui định của Incoterms có chấm dứt được tình trạng người mua phải chịu phí hai lần như trước nữa hay không.
Thứ tám, trong quá trình mua bán hàng hóa hiện nay, thường có trường hợp hàng hóa được bán tiếp một vài lần trong quá trình vận chuyển (tức là bán dây chuyền, hay bán hàng trong quá trình vận chuyển). Trong trường hợp như vậy, người bán ở giữa dây chuyền không phải là người gửi hàng đi, vì hàng đã được gửi đi bởi người bán ở đầu dây chuyền. Do đó, nghĩa vụ của người bán ở giữa dây chuyền là mua hàng hóa mà đã được gửi đi. Incoterms 2010 làm rõ điều này bằng cách cho thêm cụm từ “nghĩa vụ mua hàng hóa đã được gửi đi” như một nghĩa vụ thay thế cho nghĩa vụ gửi hàng. Điều này phù hợp với các trường hợp FAS, FOB, CFR và CIF vì về nguyên tắc nó chỉ có thể được thực hiện khi sử dụng vận đơn hay một chứng từ sở hữu có tính chất tương đương.
Thứ chín, trong Incoterms 2010, các điều khoản FOB, CFR và CIF của Incoterms đều bỏ phần nói đến lan can tàu như là điểm giao hàng, thay vào đó là nói đến hàng được giao “on board” (xếp lên tàu/ lên boong).
Thứ mười, Incoterms 2010 sử dụng cụm từ “đã được đóng gói”. Từ này được sử dụng cho các mục đích khác nhau: (1) Đóng gói hàng hóa theo yêu cầu trong hợp đồng mua bán; (2) đóng gói hàng hóa sao cho phù hợp với việc vận chuyển (3) việc xếp hàng đã đóng gói trong container hay các phương tiện vận tải khác. Trong Incoterms 2010, đóng gói có cả hai nghĩa thứ nhất và thứ hai nêu trên. Incoterms 2010 không đề cập đến nghĩa vụ của các bên trong việc xếp hàng vào container và do đó các bên liên quan phải thống nhất cụ thể về vấn đề này trong hợp đồng mua bán. Incoterms 2000 không có qui định rõ ràng về vấn đề này.
Chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2011, Incoterms 2010 được giới TMQT đánh giá là một trong những điểm mốc quan trọng, một trong những quy tắc cập nhật nhất, đáp ứng được tốc độ phát triển của TMQT. Các doanh nghiệp Việt Nam khi ký hợp đồng mua bán với các đối tác nước ngoài/ trong nước cũng cần nghiên cứu kỹ lưỡng đồng thời tham khảo ý kiến tư vấn của ngân hàng phục vụ để đảm bảo hiểu đúng và có những ứng xử thích hợp khi có tranh chấp xảy ra./.
Bảng 1: Tóm tắt thay đổi của các phiên bản Incoterms

Tên phiên bảnNội dung ban hành/ sửa đổi
Incoterms 1936Ban hành với 07 điều kiện giao hàng:
  • EXW (: Ex Works) - Giao tại xưởng
  • FCA (: Free Carrier) - Giao cho người chuyên chở
  • FOT/FOR (:Free on Rail/Free on Truck) - Giao lên tàu hỏa
  • FAS (: Free Alongside Ship) -  Giao dọc mạn tàu
  • FOB (: Free On Board) - Giao lên tàu
  • C&F (:Cost and Freight) - Tiền hàng và cước phí
  • CIF (: Cost, Insurance, Freight) - Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí
Incoterms 1936 chủ yếu giải thích những điều kiện sử dụng phương thức vận tải đường bộ và đường thuỷ. Trên thực tế, Incoterms 1936 không được các nhà kinh doanh thừa nhận và sử dụng rộng rãi vì không giải thích hết được những tập quán thương mại quan trọng.
Incoterms 1953Ban hành với 09 điều kiện giao hàng:
  • 07 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1936
  • Bổ sung thêm 02 điều kiện: DES (: Delivered Ex Ship) – Giao tại tàu; DEQ (: Delivered Ex Quay) – Giao trên cầu cảng, sử dụng cho phương thức vận tải đường biển và đường thủy nội bộ.
Incoterms 1953
(sửa đổi lần 1 vào năm 1967)
Incoterms 1953 trong lần sửa đổi thứ nhất đã thay đổi như sau:
  • 09 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1953
  • Bổ sung thêm 02 điều kiện: DAF (Delivered: At Frontier) – Giao tại biên giới; DDP (: Delivered Duty Paid) - Giao hàng đã nộp thuế), sử dụng cho mọi phương thức vận tải, kể cả vận tải kết hợp nhiều phương thức vận tải khác nhau.
Incoterms 1953
(sửa đổi lần 2 vào năm 1976)
Incoterms 1953 trong lần sửa đổi thứ hai đã thay đổi như sau:
  • 11 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1953 (sửa đổi lần 1)
  • Bổ sung thêm 01 điều kiện: FOA (: FOB Airport) – Giao lên máy bay, để giải quyết các vấn đề giao hàng tại sân bay.
Incoterms 1980Ban hành với 14 điều kiện giao hàng:
  • 12 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1953 (sửa đổi lần 2)
  • Bổ sung thêm 02 điều kiện CIP (: Carriage and Insurance Paid to) -  Cước phí và bảo hiểm trả tới địa điểm đích quy định và CPT (: Carriage Paid to) - Cước phí trả tới địa điểm đích quy định, nhằm thay thế cho CIF và CFR khi không chuyên chở hàng hoá bằng đường biển.
Incoterms 1990Ban hành với 13 điều kiện giao hàng. So với Incoterms 1980, có những thay đổi như sau:
  • Bỏ 2 điều kiện FOA và FOT, vì bản chất của chúng giống FCA.
  • Bổ sung điều kiện DDU (: Delivered Duty Unpaid) - Giao hàng tại đích chưa nộp thuế.
Incoterms 2000Incoterms 2000 giữ nguyên 13 điều kiện như Incoterms 1990 nhưng sửa đổi  nội dung 3 điều kiện FCA, FAS và DEQ.
Incoterms 2010Incoterms 2010 gồm 11 điều kiện, trong đó:
  • Thay thế 04 điều kiện DAF, DES, DEQ, DDU trong Incoterms 2000 bằng 02 điều kiện mới có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải là DAT (: Delivered At Terminal) – Giao hàng tại bến và DAP (: Delivered At Place) – Giao tại nơi đến.


Tài liệu tham khảo:
+ Incoterms 2000 – Quy tắc của ICC về sử dụng các điều kiện TMQT
+ Incoterms 2010 – Quy tắc của ICC về sử dụng các điều kiện TMQT và nội địa
+ Incoterms 2000 -  tại
http://thanhai.wordpress.com/2007/09/22/incoterms-2000/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét